Thị trường ô tô Việt Nam tăng trưởng chóng mặt
Trong năm 2016 vừa qua, thị trường ôtô Việt Nam tăng trưởng cao thứ hai trên thế giới với mức 27,1%, chỉ xếp sau Singapore.
Thị trường nhỏ nhưng tiềm năng
Số liệu của JATO (có trụ sở tại Anh) - trang thống kê và phân tích dữ liệu đối với xe du lịch, xe bán tải và thương mại hạng nhẹ từ 52 thị trường ô tô trên thế giới, cho thấy, với lượng tiêu thụ 228.478 xe, Việt Nam xếp thứ 34 xét về quy mô thị trường, đạt mức tăng trưởng 27,1%, xếp sau Singapore với 48,2%. Về quy mô, mặc dù Việt Nam không phải là một thị trường ô tô lớn song vẫn là một thị trường tiềm năng, giúp các thương hiệu xe lớn trên thế giới tiếp tục đẩy mạnh bán hàng.
Thống kê thị trường ô tô của 52 nước năm 2016 của JATO
Ông Yoshihisa Maruta - nguyên Tổng Giám đốc Toyota Việt Nam cho biết hãng mong muốn hoạt động lâu dài tại Việt Nam. Theo ông, Việt Nam có đầy đủ điều kiện phát triển nền công nghiệp ô tô thực sự với dân số trẻ lên tới hơn 90 triệu người cùng mức nhập GDP trên 2.200 USD, đặc biệt là số lượng xe mới khoảng 2 triệu chiếc.
Song đó chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ là chính sách thuế, đầu tư cơ sở hạ tầng và sự phát triển của công nghiệp phụ trợ.
Lắp ráp hay nhập khẩu nguyên chiếc
Nếu thị trường ô tô Việt Nam có đủ các yếu tố tiềm năng để phát triển thì vấn đề đặt ra là cơ hội cho lắp ráp trong nước hay nhập khẩu nguyên chiếc?
Có lẽ câu trả lời ngày càng trở nên rõ nét khi tại Việt Nam, các thương hiệu Nhật Bản đang chuyển sang nhập khẩu nguyên chiếc; Mitsubishi Pajero Sport trước đây được lắp ráp cũng đã chuyển sang nhập khẩu. Bên cạnh đó, các mẫu xe du lịch cỡ nhỏ từ Thái Lan Mirage, Attrage hay các mẫu xe đa dụng như Outlander/Outlander Sport, Toyota Fortuner xuất xứ Indonesia được nhập khẩu từ năm nay thay vì lắp ráp trong nước. Honda Civic cũng không còn được lắp tại Vĩnh Phúc mà chuyển sang nhập khẩu nguyên chiếc từ Thái Lan, Suzuki nhập khẩu Ertiga từ Indonesia. Thậm chí, cả Ford Everest cũng được nhập khẩu từ Thái Lan thay vì lắp ráp tại nhà máy ở Hải Dương.
Toyota Fortuner được nhập khẩu nguyên chiếc từ Indonesia thay vì lắp ráp trong nước từ năm 2017
Tại Việt Nam, mặc dù là mẫu bán nhiều nhất phân khúc SUV với hơn 11.500 xe song từ năm 2017, Fortuner được nhập khẩu nguyên chiếc từ Indonesia thay vì lắp ráp trong nước.
Theo đại diện tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TP. Hồ Chí Minh, một số hãng ô tô Nhật Bản có khả năng sẽ tính tới chuyện rút hoạt động lắp ráp ở Việt Nam, chuyển sang nhập khẩu ô tô từ các quốc gia lân cận như Thái Lan, Indonesia... Nguyên nhân chính được cho là ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của các công ty Nhật Bản.
Ngoài ra, Việt Nam thực tế là nước đi sau trong khu vực (như Thái Lan, Indonesia, Malaysia), do vậy trước khi đầu tư dự án lắp ráp xe tại Việt Nam, các tập đoàn ô tô lớn đều đã có những dự án sản xuất ô tô con với quy mô lớn. Những dự án sản xuất ô tô này thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất.
Năm 2014, trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2035 chính phủ đặt mục tiêu đối với xe sản xuất trong nước năm 2020 phải đáp ứng khoảng 67% nhu cầu nội địa, sản xuất trong nước đạt xấp xỉ 227.500 xe (với 114 nghìn xe đến 9 chỗ, gần 98 nghìn xe tải, hơn 1.340 xe chuyên dụng và hơn 29 nghìn xe trên10 chỗ ngồi).
Trước xu hướng chuyển sang nhập khẩu nguyên chiếc thay vì lắp ráp trong nước, nếu không có quyết sách và đầu tư hợp lí, chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam một lần nữa tiếp tục có nguy cơ không trở thành hiện thực.
Phát triển công nghiệp phụ trợ
Cơ quan có trách nhiệm quản lí phát triển ngành công nghiệp ô tô (và cả ngành công nghiệp phụ trợ) là Bộ Công Thương thừa nhận rằng do dung lượng thị trường nội địa nhỏ song lại có nhiều thương hiệu, nhiều sản phẩm nên thị phần của từng thương hiệu bị cắt nhỏ. Điều đó dẫn tới dung lượng sản xuất của ngành công nghiệp phụ trợ nhỏ không đáp ứng được đòi hỏi về hiệu quả kinh tế trong sản xuất công nghiệp. Nền công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam được coi là manh mún, năng lực sản xuất thấp, không thể cạnh tranh cùng các nhà cung cấp khác tại những thị trường lâu đời trong khu vực như Thái Lan và Malaysia.
Công nghiệp phụ trợ Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực
Một trong những lí do khiến các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ không có được lợi thế về cạnh tranh là các nguyên vật liệu như thép chất lượng cao, cao su, nhựa và chất dẻo đều phải nhập khẩu.
Thực tế, để lắp ráp một chiếc ô tô cần 20.000 - 30.000 chi tiết, trong khi đó các nhà sản xuất linh kiện trong nước chỉ đáp ứng khoảng 200 linh kiện, phần lớn là những chi tiết đơn giản, có trình độ khoa học kỹ thuật không cao như lốp xe, ắc-quy, bộ dây điện, gương, kính, ghế ngồi...
Định hướng phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 chỉ ra rằng, tỉ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm ô tô là phải đạt mức 60% cho tất cả các loại xe. Song tới nay, mức trung bình đối với xe tới 9 chỗ chỉ đạt trung bình 15%, đối với xe trên 10 chỗ khoảng 30%. Trong khi đó, những doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe lớn như Trường Hải, Hyundai Thành Công, tỉ lệ nội địa hóa ở sản phẩm hiện được người tiêu dùng quan tâm chỉ đạt bình quân khoảng 7-10% với các nhãn hiệu KIA, Hyundai, Mazda.... Trong đó, Trường Hải đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% với riêng dòng xe Innova...
Quyết định 1168/QĐ-TTg ngày 16/7/2014 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kí, phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với mục tiêu như sau:
Về phát triển công nghiệp hỗ trợ, chiến lược là giai đoạn đến năm 2020 có mục tiêu cơ bản hình thành ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô; phấn đấu đáp ứng khoảng 35% (tính theo giá trị) nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ô tô trong nước. Trong giai đoạn 2021 - 2025 bắt đầu sản xuất một số chi tiết trong bộ truyền động, hộp số... từng bước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành công nghiệp ô tô thế giới. Giai đoạn 2026 - 2035 phấn đầu trở thành nhà cung cấp quan trọng nhiều loại linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô khu vực và thế giới, đáp ứng trên 65% (tính theo giá trị) nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ôtô trong nước.
Nguồn: dantri.com.vn